Hãy lo chăn dắt một bầy chiên con.
Hãy lo chăn dắt một bầy chiên con.
Trong truyền thống dân gian, Ông Hoàng Mười cùng với Ông Hoàng Bảy là hai vị thần linh luôn được tôn vinh và về ngự đồng. Ông Hoàng Mười được xem là người được Vua Mẫu ủy thác chấm lính và nhận đồng, khác biệt với Ông Hoàng Bảy, người thường được biết đến với phong thái hào hoa và tài năng văn chương.
Khi về ngự đồng, Ông Hoàng Mười thường mặc áo vàng, thường có hình rồng uốn lượn thành chữ thọ, đầu đội khăn xếp và thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông thường thực hiện các hành động khác nhau như múa cờ xông pha chinh chiến, sử dụng quạt như một cây bút để viết văn thơ, hoặc cầm dải lụa vàng như một cách biểu hiện việc hỗ trợ người dân trong lao động hàng ngày, được coi là cách kéo tài lộc về cho bản đền. Như Ông Hoàng Bảy, ông cũng thường cầm hèo lên ngựa để chấm lính, và người dân thường dùng tờ tiền 10.000₫ màu đỏ vàng làm lá cờ, cài lên đầu ông để tôn vinh ông.
Khi ông về ngự đồng, thường có sự dâng đại chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, và thuốc lá, là những sản vật đặc trưng của quê hương ông. Ngoài ra, ông cũng thường cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ mượt mà và êm tai để làm cho không khí vui tươi và ấm áp hơn.
Căn Ông Hoàng Mười là một khái niệm trong tâm linh dân gian, đồng nghĩa với việc một người được coi là có duyên với Ông Hoàng Mười. Theo quan điểm này, mỗi người có số mệnh và số phận riêng được xác định từ trước bởi vận mệnh và nghiệp duyên từ kiếp trước. Những người được coi là có căn duyên với Ông Hoàng Mười thường được xem như là những người đã có một mối liên kết đặc biệt với thần linh này từ kiếp trước, và được chọn để trả ơn ân duyên đã nhận được từ Thần.
Theo quan điểm này, người có căn duyên sẽ dần dần nhận biết được dấu hiệu và nguyên tắc dẫn đường từ Thần Ông Hoàng Mười, hướng dẫn họ tìm đến chân gốc của số mệnh và nghiệp duyên của mình. Điều này thường được xem như là một hành trình tìm kiếm và khám phá bản chất sâu thẳm của bản mệnh, và sẽ đến một thời điểm nào đó trong cuộc đời, họ sẽ khởi duyên được và được dẫn đường bởi Thần Ông Hoàng Mười để thực hiện mục tiêu và báo đáp ân duyên đã nhận được.
Có một số dấu hiệu có thể giúp nhận biết xem một người có căn duyên với Thánh Ông Hoàng Mười hay không, và dưới đây là một số điểm cơ bản:
Nhưng quan trọng nhất, mỗi người có thể có những cảm nhận khác nhau về việc có căn duyên với Thánh Ông Hoàng Mười, dựa vào những trải nghiệm và quan hệ cá nhân của họ. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là giữ vững truyền thống tôn trọng và biết ơn người đã gieo mầm lòng từ bi và lòng nhân ái.
Các đền thờ Ông Hoàng Mười được tôn vinh khắp nơi từ Bắc đến Nam, nhưng ba địa điểm nổi tiếng nhất là Đền Chợ Củi ở Hà Tĩnh, Mỏ Hạc Linh Từ ở Nghệ An và Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười ở Hà Tĩnh.
Đền Chợ Củi, hay còn gọi là đền Hoàng Mười, nằm tại xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nơi đây hằng năm thu hút nhiều du khách đến thăm và thực hiện lễ thờ cúng, hy vọng nhận được sự phúc lộc và bình an.
Đây là một ngôi đền có niên đại từ năm 1634, xây dựng từ thời hậu Lê tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Sau nhiều lần tu bổ, đền hiện nay gồm ba toà chính: Thượng điện, Trung điện và Hạ điện.
Mộ đức thánh Hoàng Mười cũng nằm trong khu di tích Mỏ Hạc Linh Từ ở xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Theo truyền thống, đây được cho là nơi an nghỉ của ông Nguyễn Duy Lạc, một hiện thân của Thánh Hoàng Mười.
Ngày 23/11/2014 tại phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười đã được khánh thành. Đền này được xây dựng từ thời kỳ Nhà Lý vào khoảng năm 1060, tọa lạc tại ngã ba giữa Kênh nhà Lê, Sông La và Sông Lam, gần vùng ngoài đê La Giang.
Chúng ta đã cùng nhau khám phá về Quan Hoàng Mười qua hàng loạt thông tin và thần thoại đặc sắc.
Hy vọng rằng những kiến thức này đã giúp bạn hiểu rõ hơn về vai trò, tầm quan trọng và huyền thoại iên quan đến Quan Hoàng Mười. Dù là trong lịch sử hay trong tâm trí của người dân, nhân vật này luôn gắn liền với những câu chuyện huyền bí và sức mạnh tinh thần.
Hãy tiếp tục khám phá và truyền bá những giá trị văn hóa truyền thống này để giữ gìn và phát triển di sản văn hóa của dân tộc. Cảm ơn bạn đã đồng hành cùng chúng tôi trong hành trình khám phá về Quan Hoàng Mười!
Hoàng Diệu (chữ Hán: 黃耀;[1] 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882.
Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu, tự là Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai.[2] Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Kỷ Sửu 14 tháng 3 năm (1829), trong một gia đình có truyền thống nho giáo tại làng Xuân Đài[3], huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay là thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam[1]). Gia đình ông có 7 anh em và họ đều nổi tiếng là những người thông minh trong vùng. Sử chép rằng gia đình Hoàng Diệu có một người đỗ phó bảng, ba người đỗ cử nhân, hai người tú tài trong các kỳ thi dưới thời vua Tự Đức. Một trong những hậu duệ của ông là nhà toán học Hoàng Tụy.
Hoàng Diệu là người nổi bật nhất trong số các anh em trong gia đình. Năm 20 tuổi ông đã đồng đỗ Cử nhân với anh trai Hoàng Kim Giám (khi ấy 23 tuổi) khoa Mậu Thân (1848) trong khoa thi Hương tại Thừa Thiên, năm 25 tuổi đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu (1853), thời vua Tự Đức.[4] Năm 1854, ông được vua Tự Đức bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định).[2]
Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Nguyễn Phúc Hồng Tập, con hoàng thân Miên Áo, em chú bác của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), cùng với một số người khác. Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng Diệu đến nhậm chức Tri huyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy giờ có mặt trong lúc hành quyết đã nghe Hồng Tập nói: "Vì tức giận về hòa nghị mới bị tội, xin chớ ghép vào tội phản nghịch". Sau đó các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnh tâu lên Tự Đức, đề nghị nhà vua nên theo gương Hán Minh Đế, thẩm tra lại vụ án. Tự Đức phán là vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ, nay nghe Phan Huy Kiệm nói Hoàng Diệu đã kể lại lời trăng trối của Hồng Tập, bèn quyết định giáng chức Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ, Biện Vĩnh và Hoàng Diệu[5].
Được phục chức sau vụ "tẩy oan" Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra Bắc năm 1868, làm Tri phủ Đa Phúc, rồi Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định, Bố chính Bắc Ninh. Trong chín năm ấy, ông lập nhiều quân công, dẹp trộm cướp và an dân, ở đâu ông cũng được sĩ dân quý mến.
Năm 1873 ông được triệu về kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình rồi Tham tri Bộ Lại, kiêm quản Đô Sát Viện, dự bàn những việc ở Cơ Mật Viện. Năm 1878, đổi làm Tuần phủ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), nhưng vì nguyên Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làm Tham tri Bộ Lại (Thực lục của Cao Xuân Dục). Chẳng bao lâu sau, ông được sung chức Phó Toàn quyền Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha một hiệp ước giao thương. Đầu năm 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh[2], kiêm quản cả việc thương chính.
Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Như Đại Nam chính biên liệt truyện đã nêu, tổng đốc Hà Ninh đã "cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu Độ dâng sớ nói về việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn Đình Nhuận mật tâu về chước phòng vị sẵn". Vua Tự Đức khen. "Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lại trách cứ lưu binh... vì sợ giặc"... "chế ngự không đúng cách" (?)
Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định chăm lo đời sống của dân chúng trong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, còn áp ở mặt tường cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm trừ tệ (Thân cấm khu tệ), niêm yết năm 1881, của Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích quý hiếm nói lên tấm lòng ưu ái của người công bộc mãi mãi còn giá trị của nó.
Từ 1879 đến 1882, Ông làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay đối phương.
Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiều người họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội).
Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy.
Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam.
Năm 1873, sau khi chiếm được Nam Bộ, Pháp chuẩn bị tiến ra Bắc Bộ. Vua Tự Đức giao phó cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh. Ngay khi tới Hà Nội Hoàng Diệu đã chú tâm tới việc xây dựng thành lũy chuẩn bị lực lượng để chống Pháp. Từ năm 1880 đến 1882, ông đã hai ba lần dâng sớ xin triều đình chi viện để củng cố phòng tuyến chống giặc tại Hà Nội, nhưng không nhận được hồi âm từ Huế.
Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1874 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái Bình Thiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá Henri Rivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy (trên bờ bắc sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệu đã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến, đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế.
Tuy nhiên phái chủ bại của triều đình Huế đã thuyết phục vua Tự Đức chấp nhận mất miền Bắc để giữ an toàn cho ngai vàng. Vua Tự Đức đã hạ chiếu quở trách Hoàng Diệu đã đem binh dọa giặc và chế ngự sai đường. Nhưng Hoàng Diệu đã quyết tâm sống chết với thành Hà Nội. Các quan xung quanh ông Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chính Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với Hà thành.
Rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, Henri Rivière cho tàu chiến áp sát thành Hà Nội, đưa tối hậu thư, yêu sách ba điều:
Hoàng Diệu tiếp tối hậu thư, liền sai Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không đợi trả lời, lúc 8 giờ 15, Rivière với 4 tàu chiến là La Fanfare, La Massue, La Hache, La Surprise (tàu này không kịp tới, vì mắc cạn dọc đường Hải Phòng đi Hà Nội) bắn vào thành yểm trợ cho số quân 450 người và một ít thân binh đổ bộ hòng chiếm thành Hà Nội[3].
Ngay trong những phút đầu tiên, hoàng thân Tôn Thất Bá chạy trốn vào làng Mọc (Nhân Mục) ở phía Đông Nam Hà Nội theo Pháp và thông báo tình hình trong thành Hà Nội cho họ. Đồng thời, Bá cũng dâng sớ lên vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu và xin với Pháp cho Bá thay làm Tổng đốc Hà Ninh.
Tuy vậy, quân Pháp vẫn vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân Hà thành dưới sự chỉ huy của Hoàng Diệu[4]. Quân Pháp bị thiệt hại nặng và phải rút ra ngoài tầm súng để củng cố lực lượng.
Nhưng trong lúc chiến sự diễn ra khốc liệt thì kho thuốc súng của Hà Nội nổ tung[5], do Việt gian mua chuộc bởi bọn Pháp làm. Một số nhà sử học còn đoán rằng nó liên quan tới phản thần Tôn Thất Bá.[6] dẫn tới đám cháy lớn trong thành làm cho lòng quân hoang mang. Quân Pháp thừa cơ phá được cổng Tây thành Hà Nội và ùa vào thành. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh và các lãnh binh bỏ thành chạy, còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn trong hành cung.
Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn tiếp tục bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại quân Pháp dù lực lượng ngày càng yếu đi, không thể giữ được thành nữa. Cuối cùng, Hoàng Diệu đã ra lệnh cho tướng sỹ giải tán để tránh thương vong. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 54 tuổi.
Tờ di biểu, ông cắn ngón tay lấy máu viết di biểu tạ tội cho vua Tự Đức:
Ông mất ngày 25 tháng 4 năm 1882, thọ 53 tuổi.
Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc. Ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Nguyễn Tri Phương) trên gò Đống Đa với câu đối:
Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc tang[7].
Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối:
Cụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau:
Để vang danh tên tuổi Hoàng Diệu, ông được đặt tên cho nhiều trường học và đường phố tại Việt Nam.