Gni Của Nhật Bản Năm 2022

Gni Của Nhật Bản Năm 2022

Ngân hàng quốc gia Hàn Quốc (BOK) ngày 2/6 đã công bố Tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người của Hàn Quốc trong năm 2022 là 32.886 USD, giảm 7,4% so với năm 2021 (35.523 USD).

Ngân hàng quốc gia Hàn Quốc (BOK) ngày 2/6 đã công bố Tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người của Hàn Quốc trong năm 2022 là 32.886 USD, giảm 7,4% so với năm 2021 (35.523 USD).

Cho bảng số liệu: GNI và quy mô dân số của Việt Nam năm 2010 và năm 2021 Năm Tiêu chí 2010 2021 GNI (nghìn tỉ đồng) 2 654,8 8 053,2 Quy mô dân số (triệu người) 87,1 98,5 (Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam năm 2022) GNI/người của Việt Nam năm 2021 tăng gấp bao nhiêu lần so với năm 2010?

GNI và quy mô dân số của Việt Nam năm 2010 và năm 2021

(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam năm 2022)

GNI/người của Việt Nam năm 2021 tăng gấp bao nhiêu lần so với năm 2010?

Theo một số liệu thống kê tạm thời về Tổng thu nhập quốc dân trong năm 2021 do Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) cho biết vào ngày 3/3/2022, Tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người đạt 35.168 USD vào năm 2021, tăng 10,3% so với năm 2020. (Ảnh: Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc)

Vào năm 2021, Tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người của Hàn Quốc đã vượt 35.000 USD bởi nền kinh tế có dấu hiệu hồi phục và hiện tượng đồng won tăng giá mạnh.

Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc hôm thứ Tư (3/3) công bố một số liệu thống kê về Tổng thu nhập quốc dân trong năm 2021 và cho biết GNI bình quân đầu người năm 2021 tăng 10,3% so với năm 2020 (31,881 USD) lên 35,168 USD.

GNI bình quân đầu người là tổng thu nhập của tất cả công dân Hàn Quốc trong và ngoài nước chia cho dân số của quốc gia. Theo cách tính toán bằng đồng won, GNI bình quân đầu người là 40.247.000 won, tăng 7% so với năm ngoái.

Con số này đã tăng trở lại vào năm ngoái sau ba năm khi đất nước vượt qua cú sốc kinh tế do Covid-19 và tỷ giá đồng won tăng trung bình 3% trong năm so với đô la Mỹ.

GNI bình quân đầu người lần đầu tiên phá vỡ 30.000 USD vào năm 2017 (31.734 USD) và tăng lên 33.564 USD vào năm 2018, nhưng đã giảm vào năm 2019 xuống 32.204 USD và năm 2020 xuống 31.881 USD.

Cùng ngày, Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế kiêm Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Tài chính Hàn Quốc Hong Nam-ki cho biết trên Facebook của mình, “Điều đáng chú ý nhất là GNI bình quân đầu người đã vượt 35.000 USD kể từ 4 năm sau khi lần đầu tiên phá vỡ 30.000 USD”.

“Đặc biệt, đây là một kết quả đáng nể khi xét đến việc hai trong số bốn năm qua đã bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Covid-19 chưa từng có”, ông cho biết.

Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế trong quý IV năm ngoái lên 1,2% từ 1,1% khi điều chỉnh dự báo tăng trưởng đối với ngành dịch vụ và xuất khẩu hàng hóa từ những dự báo được đưa ra vào tháng trước.

Ngoài ra, tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm ngoái ước tính đạt 4%, con số tương tự với dự báo đưa ra vào tháng 1/2022.

Xuất khẩu nông lâm thủy sản của Nhật Bản đạt hơn 1.413 tỷ yen trong năm 2022, tăng 14,3% so với năm 2021. Đây là năm thứ 10 liên tiếp kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này của Nhật Bản tăng.

Ngày 3/2, Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp Nhật Bản (MAFF) công bố báo cáo cho biết kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và thực phẩm của nước này trong năm 2022 đạt 1.413,8 tỷ yen (hơn 11 triệu USD), tăng 14,3% so với năm 2021.

Đây là năm thứ 10 liên tiếp kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản và thực phẩm của Nhật Bản tăng, đồng thời ghi nhận đà tăng cao nhất từ trước đến nay.

Theo MAFF, mặc dù chịu ảnh hưởng từ chính sách phong tỏa một số thành phố để chống dịch COVID-19 tại Trung Quốc, song kim ngạch xuất khẩu sò điệp của Nhật Bản sang Trung Quốc vẫn tăng mạnh.

Ngoài ra, cùng với đồng yen giảm giá, xu hướng xuất khẩu cho cá nhân thông qua các trang mạng điện tử và mức độ phổ biến của các sản phẩm rượu whisky và rượu Nhật trên thế giới tăng đã góp phần thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu chung.

[Nhật Bản thâm hụt thương mại cao kỷ lục trong nửa đầu tài khóa 2022]

Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủy sản đạt 300,4 tỷ yen, tăng 28,7% và chiếm hơn 20% tổng giá trị xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu mặt hàng sò điệp ghi nhận mức tăng trưởng đặc biệt cao.

Nhu cầu đối với sò điệp tươi, ướp lạnh và đông lạnh rất cao tại các nhà hàng Trung Quốc, và doanh số mặt hàng này đã tăng 42,4% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 91 tỷ yen. Các sản phẩm chế biến sẵn từ nguyên liệu sò điệp cũng tăng gấp 2,1 lần, lên 16,8 tỷ yen, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng sò điệp đạt hơn 100 tỷ yen.

Đối với mặt hàng nông nghiệp, các sản phẩm ghi nhận đà xuất khẩu tốt là trứng gà (tăng 42,4%), gạo (tăng 24,4%), rau củ quả (tăng 24,3) rượu sake (tăng 18,2%) và rượu whisky (tăng 21,5%). Các mặt hàng lâm nghiệp như ván ép cũng tăng 11,9%.

Chính phủ Nhật Bản chủ trương hoàn thành mục tiêu kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 2.000 tỷ yen trước năm 2027 và đặt trọng tâm vào xuất khẩu các mặt hàng có nhu cầu cao, đồng thời chú trọng chính sách hỗ trợ các vùng sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu./.